Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc

11/05/2020 16:40

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nội dung mang tính chiến lược trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam. Bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng mang tính thời sự, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá trình hội nhập ngày một sâu, rộng.

 Đại đoàn kết là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là vấn đề chiến lược, được nhìn nhận là nguồn sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh nhờ đoàn kết một lòng. Đồng thời, đã nhận được sự hỗ trợ to lớn của các nước anh em, của bạn bè khắp thế giới. Trong Di chúc, Người đã bày tỏ mong muốn ngày thắng lợi (thống nhất đất nước) sẽ đi thăm, chúc mừng đồng bào chiến sỹ khắp hai miền Nam Bắc; tiếp đó “sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe Xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta”. Ở Bác, tinh thần đại đoàn kết không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã được thể hiện trên bình diện rộng hợn, đó là, đoàn kết quốc tế.

1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Với tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả cuộc đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng, các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân.

1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định  thành công của cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong đấu tranh chống kẻ thù. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”… Để lý giải một nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại những thế lực có ưu thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện chiến tranh, Người nói: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ; chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước; chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.

Theo Bác, đoàn kết trong Đảng là tiền đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để đoàn kết quốc tế. Đó là đường lối chiến lược kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam; vì “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người cũng thể hiện mong muốn tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tự do, giàu mạnh”.

Hình thức tổ chức lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập với những tên gọi phù hợp, như: Hội phản đế đồng minh (1930); Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (1936); Mặt trận dân chủ Đông Dương (1938); Việt Nam độc lập đồng minh hội gọi tắt là Việt Minh (1941); Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam - gọi tắt là Hội Liên Việt (1946); Mặt trận Tổ quốc Nam (1955); Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960); Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (1968); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977 đến nay). Mặt trận dân tộc thống nhất chỉ có thể bền vững khi được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Người, để tập hợp lực lượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không được phép bỏ sót bất cứ thành phần giai cấp, xã hội nào, miễn là họ có lòng yêu nước, sẵn sàng cống hiến, phục vụ quốc gia dân tộc. Và “Công, nông, trí chúng ta đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn trở ngại… Chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Vì vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp - dân tộc.

1.2. Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc

Thứ nhất, tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn dân, phát động các phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản xuất và chiến đấu, bởi vì: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.

Thứ hai, đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. Nhân dân cần được vận động, giác ngộ, tự nguyện đứng trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng để “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.

Thứ ba, đoàn kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình. Vì “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.

Thứ tư, đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.

1.3. Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Thứ nhất, cần tuyên truyền, vận động nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng đúng nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động phải phù hợp với từng đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo. Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cương lĩnh tuyên truyền phải hết sức giản đơn, ai ai cũng hiểu được, nhớ được. Đoàn kết, đánh địch, cứu nước, chỉ 6 chữ ấy thôi là đủ rồi”.

Thứ hai, phải chăm lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng phải đề ra được đường lối đúng đắn. Trong Đảng đoàn kết, thống nhất từ tư tưởng đến hành động; có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh; thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Mỗi đảng viên phải thật sự là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Thứ ba, Đảng phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Không ngừng cải cách bộ máy hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước quản lý bằng pháp luật. “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Thứ tư, Mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, đường lối thiết thực, rõ ràng; hình thức tổ chức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, các ngành, các giới, các dân tộc, tôn giáo… để toàn dân tộc có thể tham gia xây dựng và thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

1.4. Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và là đức tính cơ bản của người cách mạng

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của người cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các đồng chí của mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ. Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Đối với toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Để đoàn kết nhất trí, cán bộ lãnh đạo phải cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước.

Đối với mỗi đảng viên, Người cho rằng, muốn làm cách mạng, phải cải cáchtính nết mình trước tiên… “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mụcđích, cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết”.

Đối với toàn thể nhân dân Việt Nam, Người kêu gọi “tất cả dân ta đều Thi đua: Cần, Kiệm, Liêm, Chính” và giải thích: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người.

Đối với đồng bào các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng; không phân biệt lương, giáo; hãy làm theo gương của các bậc sáng lập Đạo mà đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng là để giữ gìn quyền tôn giáo tự do. Bác cũng khẳng định đạo đức tôn giáo có giá trị nhân văn, phù hợp với đạo đức của xã hội.

Theo Người: “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo.

Đối với đồng bào các dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em”. Ngày nay, chế độ ta là chế độ dân chủ. Đồng bào tất cả các dân tộc đều cần có phong cách làm việc của người chủ nước nhà.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Trong hệ thống di sản tinh thần vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho muôn đời sau, tư tưởng của Người về đoàn kết không chỉ dừng lại ở đoàn kết dân tộc mà còn được thể hiện qua tư tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc tế, từ đó định hướng chiến lược quan trọng cho đường lối, chính sách đối ngoại nói riêng, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nói chung.

2.1. Nội dung cơ bản

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung phong phú, rộng lớn; được thể hiện một cách rõ ràng, nhất quán, kiên định qua nhận thức, quan điểm và hành động của Người. Một số điểm như sau:

Thứ nhất, đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan, một vấn đề có tính nguyên tắc, là chiến lược xuyên suốt, nhất quán và có vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam.

Tiếp bước con đường đi ra thế giới của các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh; rút kinh nghiệm từ thất bại của những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX; nhờ những trải nghiệm trong thời gian sinh sống, lao động ở nước ngoài; qua hoạt động với tư cách đảng viên Đảng Xã hội Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, và nhất là nhận được nguồn cổ vũ lớn từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh là người đầu tiên và duy nhất xác định rõ ràng nền tảng, nhân tố quan trọng cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là đoàn kết, hội nhập với thế giới.

Trong quan điểm của Người, thân phận bất hạnh của đa số “người bị bóc lột”, người lao động nghèo ở các nước là cơ sở chính hình thành nên “tình hữu ái”, sự đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới; đoàn kết quốc tế là yếu tố quan trọng làm nên sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và cách mạng ở Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng về mục tiêu của đoàn kết quốc tế. Đó là, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước và kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp, vì quốc gia, dân tộc và vì nền hòa bình của khu vực và trên thế giới. Với Hồ Chí Minh, “sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới… Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn với chúng tôi”.

Thứ ba, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế, để thực sự tạo nên sức mạnh, phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản: (1) không phân biệt, bình đẳng, cùng có lợi; (2) tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; (3) phải phát huy tinh thần “tự lực cánh sinh”, dựa vào sức của mình là chính; (4) có lý, có tình.

Trong Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Chính phủ các nước trên thế giới ngày 14/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”. Người khẳng định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hòa bình”. Đây là thông điệp về hòa bình, hợp tác, hữu nghị, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhau của nhân dân Việt Nam với thế giới; cũng là tư duy, tầm nhìn vượt thời đại của Hồ Chí Minh.

Thứ tư, đoàn kết quốc tế, vấn đề tập hợp lực lượng là rất quan trọng. Lực lượng đoàn kết quốc tế, theo tư tưởng của Người, rất phong phú song tập trung chủ yếu vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Hồ Chủ tịch đã thành công khi gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, trong việc mở rộng lực lượng đoàn kết quốc tế, Người còn xác định rõ vai trò quan trọng của các quốc gia láng giềng, các nước lớn.

Có thể khẳng định, tư tưởng về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những định hướng, nền tảng, cơ sở lý luận quan trọng cho việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam, là ánh sáng soi đường của đối ngoại Việt Nam.

2.2. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vào công tác đối ngoại trong thời kỳ mới

Thứ nhất, xác định rõ ưu tiên lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. 

Thời kỳ đổi mới đánh dấu bước ngoặt quan trọng với việc xác định ưu tiên lợi ích quốc gia, dân tộc trong bối cảnh mới, đặt lên hàng đầu mục tiêu phát triển trong khi vẫn kiên định mục tiêu bảo đảm an ninh quốc gia và vị thế quốc tế. Nhiệm vụ lớn của công tác đối ngoại thời kỳ này là “giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Giữ vững lợi ích quốc gia, dân tộc, trong bối cảnh hội nhập, độc lập tự chủ có nội hàm mới là sự tương tác để có quyền tham gia quyết định các vấn đề khu vực, quốc tế và khả năng sử dụng các nguồn lực bên ngoài để giải quyết các vấn đề quốc gia. Độc lập tự chủ cũng chính là điều kiện tiên quyết cho hội nhập hiệu quả. Bên cạnh đó, độc lập tự chủ còn là tiền đề để đa dạng hóa, đa phương hóa; đa dạng hóa, đa phương hóa là phương cách hiệu quả để giữ vững độc lập tự chủ, đặc biệt khi đất nước ta ngày càng hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trong môi trường quốc tế có nhiều chuyển biến phức tạp.

Thứ hai, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm; đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Việc xác định Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện, cũng như làm sâu sắc các mối quan hệ quốc tế của nước ta đã thể hiện những chuyển biến quan trọng trong tư duy đối ngoại của Đảng, phù hợp với những thay đổi của tình hình đất nước và thế giới. Triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng này sẽ tăng cường uy tín, vị thế quốc tế, tập hợp lực lượng, huy động sự ủng hộ, thiện cảm của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề an ninh và phát triển của ta.

Bên cạnh đó, nền tảng chiến lược cho đối ngoại của nước ta trong bối cảnh môi trường quốc tế và khu vực đang có nhiều chuyển biến phức tạp sẽ được củng cố, theo định hướng làm sâu sắc các mối quan hệ quốc tế, mở rộng nội hàm của các quan hệ đối tác, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, nhất là lợi ích chiến lược, lợi ích kinh tế lâu dài với các đối tác; củng cố và tạo dựng những cơ chế hợp tác để bảo đảm tính ổn định và bền vững của quan hệ, từng bước gia tăng lòng tin chính trị.

Trong quá trình hội nhập sâu rộng vào “sân chơi” toàn cầu và khu vực, Việt Nam chủ động tham gia xây dựng các quy tắc, luật lệ ứng xử chung trong quan hệ quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia cũng như thế, lực và trình độ phát triển của đất nước khi hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 22- NQ/TW(ngày 10-4-2013) của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế đã có những chỉ đạo chiến lược, thống nhất nhận thức, làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực, các định hướng giải pháp lớn để triển khai thực hiện trong thời gian tới.

Thứ ba, tư duy mới về an ninh trong xử lý mối quan hệ đối tác - đối tượng.

Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (năm 1992) xác định rõ phương châm xử lý các vấn đề đối ngoại là phải nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (năm 2003), quan điểm này đã được phát triển và cụ thể hóa thêm, nêu cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tượng quan hệ, đưa ra khái niệm “đối tượng” (đấu tranh) và “đối tác” (hợp tác) và cách nhìn nhận mềm dẻo về các khái niệm này.

Đây là đột phá quan trọng về tư duy để tạo được nhận thức chung trong việc tăng cường quan hệ hợp tác với hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước đang có những vấn đề với nước ta. Bên cạnh đổi mới trong cách lựa chọn đối tượng quan hệ, phương châm mới về “đối tác, đối tượng” còn giúp chúng ta nâng cao quyết tâm thúc đẩy quan hệ, đổi mới trong xác định hình thức và nội dung quan hệ với các nước.

Trong 50 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt sâu sắc, vận dụng hiệu quả các tư tưởng, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo về đoàn kết quốc tế, ngoại giao đổi mới, với các nguyên tắc cụ thể là: Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường;Huy động sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; Ngoại giao nhân văn, luôn nêu cao chính nghĩa, hữu nghị, đoàn kết và hợp tác với các dân tộc khác; Dĩ bất biến ứng vạn biến; Nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Đây chính là nền tảng cho mọi thắng lợi của ngoại giao Việt Nam trong suốt nhiều năm qua với nhiều thành công và bài học kinh nghiệm quý báu, thành quả đạt được tiêu biểu như sau:

2.3. Giá trị thực tiễn của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Những thành công của đối ngoại Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm Đổi mới, là thực tiễn chứng minh rõ ràng và đầy đủ nhất về tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ của con người vĩ đại Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, hợp tác quốc tế luôn là nguyên tắc, chiến lược, có vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng trong quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Sau chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó khăn trên trường quốc tế, tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, một thời kỳ “Đổi mới” toàn diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc.

Từ quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế… đến nay, Việt Nam đã xác lập mối quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với gần 30 quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, là đối tác toàn diện với tất cả các nước trong cộng đồng ASEAN; lần đầu tiên được bầu vào Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL); lần thứ hai được bầu, trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và tới 2020, là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Là thành viên của WTO, của nhiều thể chế đa phương, đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do FTA với 59 đối tác trên toàn thế giới.

Việt Nam ngày càng chủ động, sáng tạo hơn trong triển khai hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế, góp phần phục vụ tốt lợi ích quốc gia, dân tộc. Tính đến nay, Việt Nam được 71 nước công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị trường và hiện trong top đầu của ASEAN về mức độ hội nhập và độ mở của nền kinh tế. Mối quan hệ với các đối tác kinh tế khiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tương đương 200% GDP.

Cùng với kinh tế, hợp tác, hội nhập quốc tế đã góp phần không nhỏ trong ổn định chính trị, an ninh trong nước, góp phần đan xen lợi ích với các đối tác, qua đó, tạo cục diện thuận lợi để Việt Nam giữ nước từ xa. Tính đến nay, sau 5 năm bắt đầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, Việt Nam đã cử 90 sĩ quan tham gia sứ mệnh quốc tế cao cả này. Có thể xem đây là sự thể hiện mức độ tham gia ngày càng sâu hơn, đóng góp ngày càng tích cực hơn của Việt Nam với tư cách là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Thứ hai, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, hoạt động đối ngoại của Việt Nam tập trung vào các đối tác ưu tiên, chủ chốt, các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác.

Quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước ASEAN tiếp tục có những bước tiến mới, quan trọng. Những nỗ lực lớn của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế ngày càng nhiều. Kết quả năm 2018, Việt Nam xuất khẩu đạt 243,5 tỷ USD và xuất siêu 6,8 tỷ USD một phần quan trọng nhờ quan hệ tốt với các đối tác lớn.

Thứ ba, đoàn kết, hợp tác quốc tế, với Hồ Chí Minh, gắn với nguyên tắc bất di bất dịch và mục tiêu quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; hợp tác tìm giải pháp ổn định, lâu dài, cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau. Đây là một đóng góp lớn của đối ngoại Việt Nam thời gian qua.

Nguy cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam hiện nay, là vấn đề Biển Đông. Tình hình Biển Đông trong vòng hơn 10 năm qua diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ là vấn đề tranh chấp chủ quyền, mà còn là tâm điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã, đang và luôn sẵn sàng giải quyết những tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời coi trọng việc giữ gìn mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Nhờ lập trường chính nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý và căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Cách mạng Việt Nam diễn ra trong thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Vì vậy đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, đi xâm chiếm thuộc địa, là kẻ thù chung của nhân dân các thuộc địa và giai cấp vô sản toàn thế giới.

Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị. Lãnh tụ V.I. Lênin đã nêu lên khẩu hiệu chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại! Từ đây, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới thì mối có thể giành thắng lợi. Mỗi dân tộc trước hết phải đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc mình. Nhưng bối cảnh thời đại chỉ rõ vận mệnh các dân tộc phụ thuộc vào nhau. Đứng trước chủ nghĩa đế quốc, giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.

Trong thời đại mới, chủ nghĩa yêu nước phải kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần đoàn kết quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc.

Trước kẻ thù chung, nhân loại tiến bộ hướng tới mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thắng lợi của dân tộc này rằng là thắng lợi của dân tộc khác. Giúp bạn là giúp mình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung rộng lớn, gồm lực lượng, phương pháp, hình thức tổ chức, về lực lượng. Hồ Chí Minh thường đề cập tới ba lực lượng: phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và xã hội chủ nghĩa; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trước hết là phong trào chống chiến tranh xâm lược.

Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại mới là giai cấp lãnh đạo cách mạng, đứng ở trung tâm của thời đại: giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế. Trong đó đáng chú ý là các nước xã hội chủ nghĩa với sức mạnh vật chất và tinh thần trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào giải phóng dân tộc nói chung, cho cách mạng Việt Nam nói riêng.

Trong việc đoàn kết với phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chú trọng phê phán các quan điểm thù ghét chủng tộc tạo sự cách biệt nhau hướng tới sự hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. Không chỉ chú trọng đoàn kết giữa thuộc địa với thuộc địa. Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản bằng mọi cách làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này. Theo Hồ Chí Minh, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc với quyền lợi của nhân dân thuộc địa là thống nhất.

Đối với các lực lượng tiến bộ yêu hòa bình, tự do, chính nghĩa. Hồ Chí Minh đã tìm cách khai thác ý nghĩa nhân văn của các lực lượng này. Người gắn cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do và công lý trên thế giới. Người tìm thấy mẫu số chung và khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tự do dân chủ trên thế giới.

Đoàn kết quốc tế có hình thức tổ chức tạo sức mạnh vật chất thật sự đó là Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa. Trên một ý nghĩa nào đó trên thực tế đã hình thành Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đối với nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương. Hồ Chí Minh đã khai thác điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, cùng có chung kẻ thù và vì vậy cùng vận mệnh chung. Từ sau khi về nước lãnh đạo cách mạng, trên cơ sở mặt trận độc lập đồng minh từng nước, Hồ Chí Minh đã lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt- Miên- Lào (Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương) giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu chống kẻ thù chung.

Như vậy đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế đã được xây dựng trên cơ sở bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào: Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống xâm lược.

Trong đoàn kết quốc tế một vấn đề có tính nguyên tắc là tranh thủ sự giúp đỡ ủng hộ của các nước nhưng không ỷ lại mà phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, dem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Muốn người ta giúp mình trước hết mình phải tự cứu lấy mình. Đồng thời “có vay thì phải có trả", không nhận sự giúp đỡ một chiều của bạn bè quốc tế, mà phải góp phần tăng cường sức mạnh đoàn kết quốc tế. Phải xác định “giúp bạn là tự giúp mình”, thắng lợi của bạn cũng là của mình và ngược lại.

BQT